Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2014
Duyên, Nợ và Tình Yêu
Có nhà văn học Tây phương cho rằng :" Con người đau khổ . Hát lên cái khổ đau của mình, con người sẽ vượt qua cái đau khổ ấy " (D. Huisman, L'Art de la dissertation lettéraire)
Rồi chính ca dao ta cũng nói rõ ràng :
Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu cành cây đa
Cực tấm lòng em phải nói ra
Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn .
Qua các câu ca dao trữ tình ấy, dân gian đã đúc kết các trai gái nông thôn, vào mấy danh từ "Duyên, Nợ, Tình" . Trong ngôn ngữ hằng ngày, khi người ta bàn đến vấn đề Yêu Thương, mấy từ này đã được lặp lại biết bao nhiêu lần
Một duyên, hai nợ, ba tình,
Chiêm bao lẩn quất bên mình năm canh .
... Răng đen ai khéo nhuộm cho mình,
Để duyên mình đẹp, cho tình anh yêu .
Trăm con ống sợi chỉ điều,
Trăm con chỉ ấy buộc vào tay anh .
Một duyên, hai nợ, ba tình....
Dân gian thời trước cho rằng yêu nhau, lấy nhau, được hay không là do "duyên số " . Theo tích Vi-Cố xưa, một đêm trăng đi dạo, gặp một ông lão ngồi xe các sợ tơ đỏ với nhau . Hỏi, thì đáp là đang xe những cặp trai gái ở thế gian này lại cho thành vợ chồng . Vi Cố tỏ ý muốn biết vợ của y sẽ là ai ?
Ông lão chỉ một đứa bé, con mụ ăn mày ở xó chợ gần đó . Vi Cố xấu hổ , tức giận, cho người giết đứa bé, ro6`i sợ tội, bỏ trốn . Mãi về sau Vi Cố cu8ới được con gái nhà quan, không dè đó lại là con gái mụ ăn mày trước kia Vi Cố giết hụt , mẹ đem bỏ ngoài chợ, một ông quan đi ngang qua gặp đuợc, thương hại đem về nuôi
Cho nên, gặp nhau, trai gái nông thôn thường tự hỏi :
Vừa đi là gặp em đây,
Một là duyên kỳ ngộ, hai là trời xoay đất vần .
.... Sông sâu nước hiểm làm vầy,
Ai xui em đến chốn nầy gặp anh ?
Nhưng dân gian ta lại thêm từ "nợ " vào, cho rằng vì kiếp trước có nợ nần nhau, nên kiếp nầy phải gặp lại thành vợ chồng, để đền trả cho xong .Đôi ta là nợ hay tình
Là duyên là kiếp, đôi mình kết giao
Em như hoa mận hoa đào
Cái gì là nghĩa tương giao hỡi chàng ?
Hoặc
Chồng gì anh, vợ gì tôi,
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!
Mỗi người một nợ cầm tay,
Ngày xưa nợ vợ, ngày nay nợ chồng
Vậy "duyên nợ " là một từ kép bao gồm hai mặt tích cực và tiêu cực của thuyết "nhân quả" áp dụing vào phạm vi hôn nhân và tình yêu đôi lứa . Nói một cách khác , dân gian ngày xưa ch orằng hôn nhân thành hay không, là tuỳ theo trai gái có "phải duyên" hay "trái duyên" với nhau không ?
Phải duyên, áo rách cũng màng
Không phải duyên , áo nhiễu, nút vàng chẳng ham .
... Chẳng thao nhà ngói bức bàn (gỗ)
Trái duyên, coi cũng bằng gian chuồng gà .
Ba gian nhà lá loà xoà,
Phải duyên, coi tựa chín toà nhà lim
... Đẹp như tiên, không phải duyên không tiếc
Xấu như ma mò, duyên hiệp anh thương .
Như vậy, dân gian đã công nhận rằng hễ " phải duyên" hay có "duyên nợ" với nhau thì xấu đẹp gì trai gái cũng đi đến chỗ thương yêu nhau .
Và dân gian cũng khẳng định "đảo lại" rằng: hễ xấu đẹp gì mà cũng thương nhau, tức là đã "phải duyên", trái , gái quả đã có "duyên nợ" với nhau rồi .
Khẳng định đảo lại nầy đã dẫn trai gái nông thôn đến một quyết định táo bạo hơn :
Số em giàu, lấy khó cũng giàu,
Số em nghèo, chín đụn mười trâu cũNg nghèo .
Phải duyên, phải kiếp thì theo,
Thân em có quản khí nghèo làm chi
Chữ nhân duyên thiên tải nhất thì,
Giàu ăn, khó chịu, lo gì mà lo .
Đối với thanh niên nông thôn, tình yêu lại còn là lẽ sống của một cuộc đời cần lao lam lũ . Ngoài tình yêu ra, còn có gì để có thể an ủi họ được nữa đâu .
Cho nên, bao nhiêu Lễ giáo của đạo Nho khi xuống đến nông thôn, cũng phải nhân nhượng trước tình yêu đôi lứa của họ
Mình về, ta chẳng cho về,
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ .
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba
Chữ Trung thì để phần cha
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ Tình .
Hơn nữa, xã hội nông thôn trước đây vẫn còn chịu ít nhiều ảnh hưởng di sản của mẫu hệ, nên trong việc cưới hỏi, cha mẹ không mấy khi ép buộc con cái :
Ép dầu ép mờ, ai nỡ ép duyên
...Xưa kia ai cấm duyên bà,
Bây giờ bà già, bà cấm duyên tôi!
Rồi thỉnh thoảng nếu có trường hợp bị cha mẹ ép duyên, thì trai gái nông thôn sinh ra liềi lĩnh:
Tiếc răng, tiếc rứa, tiếc ri,
Liều mình b? xứ mà đi cho rồi
Liều mình , giả như đứa đứt tao nôi (*)
Giả như cha với mẹ không sinh ra đôi đứa mình
(*)Đứt tao nôi (tao: sợi giây, nôi: đồ đan bằng tre để trẻ nhỏ nằm) Câu này ý nói : Coi như chúng mình khi còn bé đã bị đứt tao nô, mà chết non đi .
Về sau, nếu tình yêu bị gián đoạn, đổ vỡ, hôn nhân không thành, người xưa cho là tại "duyên số " dở dang, và tự an ủi rằng :
Khi nào gánh nặng anh chờ,
Qua cầu anh đợi, bây giờ em quên
Kiếp này đã lỡ làng duyên,
Kiếp sau xin hẹn cửu tuyền gặp nhau .
Ở các tầng lớp quan lại, phú thương chịu ảnh hưởng Nho giáo, phong kiến , thì nhất luật "nam nữ thụ thụ bất thân" .
Trái lại ở nông thôn, trai gái, vì nhu cầu sinh hoạt nông tác nên thường có nhiều dịp gặp nhau: trong một vụ cấy mạ, một tối giả gạo, một chuyến đò ngang, một buổi hát giao duyên, hát trống quân, hát phường vải, một ngày chợ phiên, một lễ hội trong làng ... và được tự do chuyện trò, hò hát trêu ghẹo, đưa tình với nhau .
Ăn chơi cho hết tháng hai,
Để làng gióng đám cho trai dọn đình .
Trong thời đánh trống rập rình,
Ngoài thời trai gái tự tình với nhau
Ngày xưa, các buổi gặp gỡ hò hát nầy thường đưa trai gái nông thôn đến việc "nên vợ nên chồng" một cách nghiêm túc :
Con cò lấp ló bụi tre,
Sao cò lại muốn lăm le vợ người ?
Vào đây ta hát đôi lời,
Để cho cò hiểu sự đời ở ăn
...
Một đàn cò trắng kia ơi
Có nghe ta hát những lời nầy không ?
Hát câu đẹp cốm tươi hồng
Hát câu nên vợ nên chồng , cò ơi !
Chính các thân hào đã đứng ra tổ chức những đám "hát phường vải", "hát trống quân", "hát quan họ", "hát giã gạo", "hát giao duyên", ... để trai gái hát hò, gặp gỡ , kết "bạn văn nghệ" vơ"i nhau, dưới sự kiểm soát kín đáo của các bậc đàn anh :
Ai có chồng, nói chồng đừng sợ ,
Ai có vợ, nói vợ đừng ghen .
Tới đây hò hát cho quen,
Rạng ngày, ai về nhà nấy, há dễ ngọn đèn hai tim (*)
(*)Đèn hai tim= đèn nhà quê ngày xưa đổ dầu phụng vào dĩa, dùng một sợ vải làm tim đốt . "Đèn hai tim" trai có 2 vợ
Cũng ở thôn quên ta ngày xưa, thường con gái lại đư"ng lên tỏ tình và tìm đến gặp con trai trước .
Một tâm tình say đắm, "lãng mạn" phi Nho giáo! Không cần biết sẽ có nên vợ nên chồng hay không, nhưng gặp nhau, thương nhau thì cứ "xơi năm ba miê"ng trầu " với nhau đã ... "kẻo lòng nhớ thương "
Sớm mai gánh nước mờ mờ,
Đi qua ngõ giữa tình cờ gặp anh .
Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu .
Trầu nầy ăn thật là say,
Dù mặn dù lạt, dù cay dù nồng .
Dù chẳng nên vợ nên chồng,
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương .
Cầm lược thì nhớ tới gương,
Cầm trầu nhớ túi, nằm giường nhớ nhau .
Ở đây, trai gái nông thôn chỉ cần hưởng thụ trong hiện tại, không cần biết đến "duyên nợ" sẽ đưa đến đâu ?
Một hành động, mà ngày nay có thể coi như là "lãng mạn" hay "hiện sinh!"
Và tính cách lãng mạn ấy còn gặp lại trong cái nhìn đắm đuối, rụt rè của những mối tình vô vọng :
Ngó em chẳng dám ngó lâu,
Ngó qua một chút đỡ sầu mà thồi!
"lãng mạn" còn ở trong cử chỉ nâng niu, săn sóc đứa con nhỏ của cô gái vừa mơ"i lừa dối mình, mà oái ăm thay, đó lại là cô gái mà ta đã lỡ yêu:
Mình nói dối ta mình chửa có con,
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò .
Con mình những trâu cùng tro,
Ta đi xách nước rửa cho con mình .
Về sau, khi chế độ xã hội chuyển sang phụ hệ, với ảnh hưởng của Nho giáo, thì các cuộc hẹn hè riêng tư "thân mật, mùi mẫn" giữa trai và gái như thế tất nhiên phải kín đáo, lén lút hơn xưa :
Đêm nằm thao thức vào ra,
Chờ cha me ngủ, lén qua thăm mình .
Tôi than hết sức, tôi dứt hết tình,
Thiếu điều cắn ruột trao mình, mình ơi!
Gió đưa cành mận, gió lận cành đào
Vì em anh phải ra vào tối tăm
Tối tăm thì mặc tối tăm
Chờ cho cha mẹ đi nằm sẽ hay
Cầm tay, anh nắm cổ tay
Em đừng hô hoán sự nầy mà to .
Đã yêu nhau rồi, tức là đã "phải duyên", đã có "duyên nợ" với nhau rồi, thì "phải theo".... lén lút theo!
theo cadaotucngu dan gian
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét