Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013
Triết lý cà chua
Tôi thích cái "triết lý cà chua" của nhân vật nữ chính trong phim "Tình cờ" -Korea movie: "Tomato viết ngược lại vẫn là Tomato.
Có đảo ngược thế nào thì cà chua cũng vẫn là cà chua".
Cà chua xanh thì bên trong cũng xanh, ngoài đỏ thì bên trong cũng đỏ. Không giống như quả dưa hấu, ngoài xanh mà trong lại đỏ...
Con người ta không phải lúc nào cũng sống được như quả cà chua, sống thật đúng với cái "tôi" bên trong của mình.
Có khi muốn sống như thế nhưng lại không thể được. Và cái câu "đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy" lại được áp dụng triệt để như một lời biện minh hữu ích.
Người ta bảo đấy là sự kết hợp cà chua với dưa hấu để cho ra thế hệ F1 hoàn hảo, biết biến hoá linh hoạt trong từng hoàn cảnh...
Nhưng, như một người bạn đã nói: "Nếu như trong cuộc đời, cái gì cũng là chính nó, người tốt kẻ xấu đều có thể phân định ngay từ lần gặp đầu tiên, cuộc sống còn thú vị nữa hay không?
Cũng như trong cuộc sống, những "người xấu" thật ra cũng không đáng ghét lắm.
Sự có mặt của họ tạo nên sự phong phú cho cuộc đời và ở một chừng mực nào đó, họ tạo nên thế đối lập khiến những người tốt được nhận diện và ngợi khen.
Có một "người bạn cà chua" cũng tốt, nhưng đối diện với một cây dưa hấu vẫn thú vị hơn nhiều. Không phải giả dối, mà là biết giấu mình một chút, người đối diện sẽ cảm thấy được khám phá và phát hiện ra sự thú vị ẩn chứa bên trong cái vẻ ngoài lạnh lùng ấy.
Có người nói rằng sống trong đời là tìm cách chiếm lĩnh một lập trường sống, một lập trường nhân cách giữa cuộc đời.
Ngoại trừ số ít người có can đảm không quan tâm đến xung quanh, thì đa số những người còn lại đều có đôi lúc hoang mang về cách sống của mình.
Tôi không phải là một người "can đảm không quan tâm đến xung quanh". Tôi đôi khi cũng vẫn hoài nghi về lối sống của mình.
Nhưng tôi thích phân biệt rõ ràng tốt - xấu, kể cả ngay từ lần gặp đầu tiên.
Tôi vẫn thích trắng đen rõ ràng hơn là mờ mờ ảo ảo.
Và hơn hết, tôi vẫn thích có một "người bạn cà chua" hơn là một "người bạn dưa hấu". Không phải ai cũng biết giới hạn của việc "giấu mình đi một chút" cho người khác khám phá.
Người ta hay tham lam, hay đi quá đà mà chẳng nhận ra được đâu là điểm dừng.
Thích thì bảo là thích. Không thích thì bảo là không thích.
Yêu thì bảo là yêu mà không yêu thì nói không yêu.
Đừng có miệng nói yêu mà trong bụng thì ghét, sau lưng lại nói xấu hết lời. "Dù ai cách núi ngăn sông ta cũng không nói ghét là yêu.
Dù ai ngăn sông cấm chợ ta cũng không nói yêu là ghét".Xấu thì hãy sống đúng như xấu, đừng cố tỏ ra mình tốt đẹp. Mà tốt đẹp rồi thì hãy giữ và làm cho mình tốt đẹp hơn.
Nghèo thì không thể sống cuộc sống của giàu, mà giàu cũng chẳng thể cố vờ như mình nghèo khó.
Sống đúng với bản thân mình, đấy mới là ý nghĩa sâu xa của "triết lý cà chua"!
Tôi từng được giáo huấn thế này: "Em không thể giữ mãi một lối sống, một nếp suy nghĩ được. Em làm ở công ty ABC, tất cả mọi người đều cùng đi ăn cơm trưa với nhau.
Nhưng khi em chuyển sang công ty XYZ , mọi người chỉ thích gọi cơm hộp về văn phòng ăn thì em cũng không thể bắt tất cả bỏ thói quen ấy để đi ra ngoài ăn cùng nhau.
Hoặc em cũng sẽ phải làm như họ hoặc em sẽ phải ra ngoài ăn một mình. Vậy thì khi đó, em có còn là em với thói quen cũ không?
Em có còn là... cà chua nữa không?"
Tôi đã cười rất nhiều mỗi khi nhớ lại câu nói đó. Người nói rất thật lòng, đưa ra ví dụ rất cụ thể nhưng lại nhầm lẫn giữa việc thay đổi thói quen cho phù hợp với hoàn cảnh sống và việc sống đúng với con người mình.
Tôi có thể chuyển sang ăn cơm hộp nhưng đó chỉ đơn thuần là chuyển thói quen chứ không có nghĩa là tôi sẽ biến thành một người xấu, cũng không có nghĩa là tính cách, phẩm chất của tôi thay đổi theo.
Tôi vẫn cứ là tôi, đơn giản vậy thôi...
author unknow
Chiều rơi
Tay chạm ngón đan nỗi buồn rất ngọt
Đông hững hờ cắt lạnh những niềm tin
Khép đôi mắt hai hàng mi lệ chảy
Gió vô tình ghé lại hỏi vì sao?
Đêm thiếu sáng trời nghiêng bóng tối
Vàng võ chiếu chăn nồng nàn lịm tắt
Lời nỉ non em ném lại phương trời
Anh không về giăng phiền muộn chơi vơi
Em nơi này... tay vươn dài chẳng đến
Lũ bướm bận buổi chiều không trở lại
Xóa môi hôn hoa vàng xưa phai dấu
Có lẽ nào mình sẽ vắng xa nhau?
Giọt tình rót nghe cạn dần nhịp thở
Rơi lại cuối vườn hoa khế bơ vơ
Thôi buồn vui khép lại áng mây mờ
Thương yêu mỏng nở ngược mùa ngây ngất!
Cỏ Dại
Tình yêu và cái lồng của sự tự do
Tình đầu ai không nhớ. Tình đầu ai dễ quên. Ta cũng từng có một thời
đắm say mộng ảo, dâng hiến tình yêu cho người ta ngỡ là đến từ cõi thần
tiên. Và ta biết, dù không có ta khờ khạo thế, thế gian vẫn đầy rẫy
những kẻ trước sau rồi cũng sa vào lưới tình. Tình yêu, từ trước đến
giờ, mấy người cố định nghĩa và sẽ chẳng có người nào thành công.
Em đừng hỏi ta tình yêu của ta là gì?
Cũng đừng hỏi ta tại sao người ta
sống mà cứ phải yêu?
Bất cứ ai, sinh ra là một con người, đã được sống,
rồi cũng sẽ đến lúc biết yêu. Bước vào tình yêu và bắt đầu trải nghiệm
những khoảnh khắc chẳng thể lặp lại ở bất cứ một tình cảm nào khác. Và
dù cùng là trong tình yêu thôi, người ta yêu mỗi ngày lại khác, yêu mỗi
người lại khác.
Tình yêu không đến một lần. Tình yêu đến và ở lại trong trái tim một
người, bao lâu tùy vào... trái tim của người kia. Như thế nghĩa là chẳng
ai có thể "đơn thương độc mã" chinh chiến với cuộc tình của mình. Người
ta không thể yêu khi chỉ có một. Dù là tình yêu từ một phía, cũng phải
có phía còn lại, để phía này trao gửi thứ tình vô vọng đó. Tình yêu vô
vọng là tình yêu đớn đau.
Tình yêu đẹp và tình yêu đến, ngay cả khi người ta chưa hề sẵn sàng.
Chẳng ai biết, đến khi nào người ta sẽ yêu.
Nhưng ai cũng biết, người ta
thường biết yêu vào thời khắc người ta đang ở thời kỳ đẹp nhất của cuộc
đời.
Thanh xuân là mảnh đất màu mỡ nhất cho tình yêu nảy mầm. Nhưng
điều kì diệu là, khi thân ta đã héo mòn theo sự khắc nghiệt của năm
tháng, nếu ta biết yêu lần đầu, ta sẽ lại có một mảnh thanh xuân khác -
trong tâm hồn…
Khi ta còn giữ nguyên vẹn được nét ban sơ của những rung cảm, ta sẽ đi
qua những khoảnh khắc không gì lấy lại được. Tình yêu đầu của ta, chẳng
ai nói cho ta biết sẽ diễn ra như thế nào, nên ta đành mò mẫm. Ta đành
phơi bày tất cả con tim trinh bạch của ta ra để đón nhận mọi nỗi.
Tình
đến đâu ta nhận đến đó. Ta nhận lần đầu. Và ta gọi đó là mối tình đầu.
Có những mối tình mãi mãi không bao giờ trở lại. Có những xúc cảm vĩnh
viễn thuộc về quá khứ, khi ta đã đi qua. Có những yêu thương vơi cạn lại
đong đầy, nhưng là những yêu thương thật khác. Lần đầu tiên môi ta lắp
bắp thành lời yêu, là lần đầu tiên ta thấy trong tim mình xối xả những
dòng không chỉ là máu. Vậy mà, lời nói gió bay. Dù có nói ta yêu em mỗi
ngày, dù có nói ta yêu nhau mỗi ngày bằng một câu không đổi, nhưng đời
vẫn cứ đổi thay. Và đời, không chỉ có một mình ta sống, một mình ta yêu.
Ai cũng có quyền yêu, và nếu chẳng may yêu chung một người, ai cũng có
quyền tranh giành cho mình hạnh phúc. Thế mà tình yêu có được bởi sự
tranh giành, lại chẳng phải lúc nào cũng là hạnh phúc. Có người hạnh
phúc thì sẽ có người khổ đau.
Đôi khi, người này chấp nhận đau khổ để
người kia hạnh phúc. Nhưng người kia thấy người này đau khổ, cũng chẳng
thấy hạnh phúc trọn vẹn. Mới hay, hạnh phúc lúc nào cũng cần phải vun
đắp, như mảnh đất người phải cầy xới trước khi gieo trồng.
Những kẻ đứng ngoài chiêm ngưỡng không bao giờ hiểu hết cảm giác của
những người đang tham gia cuộc chơi.
Vậy thì em, nếu tình yêu đến, hãy
cứ mở lòng chào đón. Hãy cứ chân thành và bình thản nếm trải.
Đừng vội
vàng và cũng đừng đối xử với tình yêu như một chú chim non em vô tình
bắt được. Bởi vì em ạ, không cái lồng nào đủ sức giam cầm những thứ
thuộc về tự do.
Tuệ Lâm
Bao dung với chính mình
Trong cuôc đời mỗi con người, sự thay đổi luôn là điều cần thiết, tôi
cũng không là ngoại lệ bởi cái dòng chảy thời gian bất tận này, nếu
không thích nghi để hòa nhập thì tôi cũng chỉ mãi dậm chân tại nơi bắt
đầu.
Dẫu là vậy, nhưng những cung bậc cảm xúc của ngày hôm qua ấy vẫn cứ
“tự nhiên” trôi dạt về. Để giờ đây, khi đi qua một đoạn đường khá xa,
tôi phải rùng mình trong một khoảnh khắc nhỏ thôi: “Ừ thì những gì đã
qua hãy để thả nó trôi, đôi khi chúng ta phải học cách chấp nhận, cách
từ bỏ để tìm đến và giữ lấy những gì yêu thương nhất”.
Mỗi ngày trôi qua, vẫn công việc quen thuộc tôi cần mẫn gieo hạt giống
yêu thương và vị tha bởi tôi biết rằng, dù ngày mai có ra sao, có bao
nhiêu sóng gió vẫy gọi thì ngày hôm nay tôi phải sống thật hạnh phúc, và
phải cố giữ vững niềm tin yêu trong cuộc sống. Bản năng của con người
ta luôn muốn nhìn vào quá khứ, tôi không muốn bản thân bi lụy, vin vào
những hồi ức mà sống.
Và tôi cũng đủ mạnh mẽ để hiểu rằng mình đang đi
trên con đường của hiện tại và tương lai. Dù sao đi chăng nữa, thì hôm
xưa cũ ấy đã từng tồn tại, ít nhiều cũng lắng đọng lại và thôi thúc nổ
lực không ngừng trong tôi. Hôm nay là một chiều ngược gió, sống lại
trong cảm xúc ấy, tôi không khỏi bùi ngùi và phải thốt lên hai chữ “giá
mà…”
Cuộc đời chỉ thay đổi khi bản thân mình chịu thay đổi, tôi rất hiểu giá
trị của thời gian, mới ngày hôm qua thôi tôi còn nghĩ mình đang rơi vào
trạng thái “bước đường cùng”. Thực sự, lúc ấy mình cần lắm một cái nắm
tay để tiếp thêm nghị lực, một câu nói để vực dậy cái tinh thần đang
tuột dốc chứ không phải là những ánh mắt thương hại, cái im lặng đến tàn
nhẫn. Có một điều tôi chắc rằng, không ai dạy mình cách đứng dậy ngoài
chính bản thân, chỉ có như vậy mình mới đứng vững và bước tiếp trong
hành trình mới.
Con đường còn dài và rộng lắm, điều quan trọng là tôi đã
tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống sau mỗi lần vấp ngã ấy.
Nhìn lại chặng đường đã qua, cũng từng có lúc tôi muốn buông xuôi tất
cả, nước mắt cứ thế tất tả rơi ngược xuôi. Tôi đủ lớn để nhận ra những
vết xước ngày nào tồn tại chẳng qua là bản thân mình tự cho nó cái quyền
làm việc ấy. Giờ đây, tôi đã biết yêu cuộc sống hơn, không tự cho mình
cái quyền làm tổn thương mình nữa. Những gì đã xảy ra sẽ không thay đổi
được nữa và chỉ có sự thay đổi nho nhỏ trong nhận thức để nhìn mọi thứ
nhẹ nhàng và đơn giản hơn thôi. Đắng đót của ngày hôm qua ấy là học phí
mà tôi phải trả để có được sự trải nghiệm.
Tôi có một trái tim để sống, một cuộc đời để trải rộng sự yêu thương.
Sự tha thứ là món quà mà tôi dành cho tất cả những gì đã mang đến với
tôi, chính điều đó giúp tôi nhìn cuộc sống bằng ánh mắt thiết tha hơn và
tìm được những hạnh phúc nhỏ nhoi, vụn vặt nhất giữa đời thường.
Có lẽ
sự bao dung của tôi chưa đủ lớn, món quà muốn tặng mình vẫn còn vẹn
nguyên, bởi cứ ngỡ rằng mình “đã quên” nhưng thực ra lòng tôi vẫn còn
những gợn sóng nhỏ cứ mãi lăn tăn cũng không biết lúc nào cơn gió nhỏ
thổi bùng chúng thành những ngọn sóng nữa?
Đôi khi muốn từ bỏ tất cả để
tìm sự bình yên, tự tại trong tâm là tôi thấy hạnh phúc lắm rồi nhưng
sao vẫn cứ thấy nó cách tôi một tầm tay với. Mọi thứ đều có cái giá phải
trả, tôi vẫn đi trên con đường của riêng mình và đã sống rất thật với
chính bản thân dẫu rằng ngoài kia còn bao nhiêu người cứ nhìn và cười
một cô ngốc như tôi.
Tôi không phải là người mạnh mẽ và nghị lực nhất bởi những phút yếu
lòng tôi vẫn không thể giữ được sự thăng bằng trong cuộc sống và mãi lẫn
quẫn với cái bóng của ngày hôm qua. Dù rằng, đó chỉ là cảm xúc bất
chợt, tôi chẳng thể gia hạn hay điều khiển được nó nhưng chính điều đó
sẽ là động lực, là kim chỉ nam tốt nhất và rồi tôi sẽ nhanh chóng vượt
qua tất cả bằng cách này hay cách khác. Đơn giản vì tôi không cầu toàn,
cũng chẳng muốn tạo nên thành tích ở mỗi nơi tôi qua mà để tôi biết yêu
thương hơn cuộc sống này và những con người xung quanh.
Tôi vẫn phục ở mình nghị lực sống và sự kiên cường sau mỗi lần vấp ngã.
Giờ đây, tôi đã tự vực mình dậy, ngăn những giọt nước mắt đang chảy
ngược, chẳng phải gào thét đòi sự công bằng trong cuộc sống, cũng không
cố gắng chỉ trích lỗi lầm.
Sự lựa chọn sẽ chẳng bao giờ là dễ dàng, nhất
là đối với trái tim nhỏ bé dễ tổn thương của tôi. Quá khứ là một phần
của ngày mai, nhờ có nó mà mình lớn lên, chỉ có cách ứng xử là cái mình
phải học để chấp nhận và thay đổi dẫu biết rằng đó là điều không dễ chút
nào. Đi qua những cung đường trải đầy gai góc, tìm được sự bình an trên
nó nghĩa là hạnh phúc đang đợi ở cuối chặng đường.
Tôi tin sự kiên định
ở bản thân, lòng bao dung đối với cuộc đời và biết quý trọng, nâng niu
từng giây phút để khi ngoảnh lại tôi không phải hổ thẹn, tiếc nối.
Tôi
nhớ mãi câu nói của nhà văn Marc Levy: “Hãy thay đổi những gì có thể
thay đổi, chấp nhận những gì không thể sửa chữa và đủ khôn ngoan để nhận
thức sự khác biệt”, khi nào làm được điều đó nghĩa là tôi đã đủ bao
dung với chính bản thân mình!
Phương Dung
Lởi tình buồn -Chu Trầm Nguyên Minh
Gần 50 năm trước bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh xuất hiện như một lời chia tay trong tâm trạng bấp bênh, mang đầy nuối tiếc của kẻ ra đi mà chẳng biết ngày về… “Anh đi rồi” vang lên như lời than thở của kẻ đang giã từ đời sống bình yên để bước vào cõi đạn bom.
Cuộc ra đi đó là dấu chấm hết của đời thư sinh, xếp bút nghiên để cầm lấy súng. Bản tính hiền hòa, CTNM mang súng mà có lẽ chắc chẳng biết phải dùng súng để làm gì. Trong lòng anh chỉ mang nặng những âu lo, trước mắt anh chỉ có một bầu trời đầy sa mù nên lời thơ của anh âm thầm vang lên như một nỗi buồn thân phận. Cá nhân. Nhưng cũng là tập thể, của những trai tráng cùng thời…
Chỉ với câu thơ đầu : “Anh đi rồi còn ai vuốt tóc”….
Bài thơ đã ngân lên như một khúc nhạc nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy day dứt, xót xa khi phải xa cách trong tình yêu. Chỉ một từ “đi” thôi nhưng sao nó làm nỗi buồn như kéo dài đến vô tận ! Từ “đi ” ở đây không hẳn là chuyển động… mà còn là sự chia ly, là kéo dài khoảng cách không gian giữa hai kẻ yêu nhau, sẽ không còn thấy, không còn gặp, không còn được tình tự, âu yếm nhau nữa. Một cảm giác cô quạnh khi hai người không được sống bên nhau
. Sự chia ly làm kẻ ra đi buồn da diết và tình yêu sâu sắc của anh dành cho người ở lại lúc này đang lớn lên như biển như trời. Những câu hỏi kế tiếp chính là nỗi băn khoăn của kẻ ra đi : “đêm xuống rồi em buồn không hỡ?” Trời sa mù tầm tay với âu lo…
Chắc chắn là chỉ trước lúc xa nhau con người mới cảm nhận hết tình yêu thương, sự mất mát và nỗi cô đơn. Ý tưởng không mới, cũng chẳng lạ… thế nhưng người đọc thơ anh cứ nghe lòng buồn da diết – Có lẽ nó giải bày niềm khát khao hạnh phúc và nỗi đớn đau lúc chia ly trong tình yêu bằng cảm xúc rất thật, rồi ngôn ngữ và nhạc điệu đã làm cho cảm xúc thăng hoa ?
Đọc thơ anh, không khó nhận ra là lời thơ tự nhiên tuôn chảy, hoàn toàn không cường điệu hay cố gắng tạo ra những tiếng kêu thê thiết… mà âm vang vẫn man mác, trầm buồn. Anh đi rồi còn ai đưa đón…
Nỗi lo lắng đơn giản mà xúc động. Những câu hỏi sau đó còn được anh liên tiếp, phóng bút đưa ra, dồn dập… như sự hốt hoảng này chính là nỗi buồn/nhớ đang giăng ngập hồn mình. Nó chiếm lĩnh trọn tâm hồn kẻ ra đi. Bởi ra đi trong thời khói lửa chiến tranh là sự ra đi một đi không trở lại. Quá khứ không quay về… Có còn lại chỉ là những kỉ niệm về ngày xưa. Những hoài niệm làm người đi day dứt… nên “đi rồi” mà như vẫn đứng đó, ngẩng nhìn về phía sau, vì, chỉ một chút nữa thôi là không còn chi nữa.
Không còn mái tóc xanh “trùng dương sóng lượn” không còn cả ngôn ngữ để “nói hết yêu thương”.
Đi, mà lòng vẫn ao ước được ở bên em… ở đâu cũng được, dưới thấp hay trên cao, thậm chí lơ lửng giữa bầu trời như một đóm sao…miễn là được nhìn thấy em, chiêm ngưỡng em… chăm lo cho em mọi thứ.
Nhưng đi rồi…thì không gian xa khuất… nên lòng “..chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng Bâng khuâng. Và lo sợ. Vì ngày mai biết đâu anh sẽ không còn sống, hay sống sót trở về mà một phần xương thịt đã gửi lại núi rừng.
Bài thơ chỉ có vỏn vẹn 112 chữ nhưng chứa đựng bao điều muốn nói. Ngắn, nhưng cô đọng những tâm tình, những âu lo, mất mát, của tuổi thanh xuân chìm sâu hun hút theo dòng lịch sử của một thời chinh chiến.
Bài thơ khi đọc lên, tự nó đã thấy buồn. Rồi qua lời hát nó còn da diết hơn. Thê thiết hơn. Ngôn ngữ trữ tình thanh thoát còn được bay lượn trên làn sóng âm thanh làm lòng người nghe cảm nhận một cảm giác chơi vơi. Đó có phải là kí ức về một thời trai trẻ, về mối tình đầu… mà ai ai trong chúng ta cũng sẽ giữ mãi ?
Cho dù ngày sau có ra sao đi nữa…có chết đi…thì vẫn hạnh phúc vì đã có được một tình yêu nồng thắm… “Phúc yêu em dấu lần quá khứ ”… Âm thanh du dương cao vút rồi khép lại bằng “ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô” …
Rồi tất cả chìm vào hư không… Còn lại chăng chỉ là một nỗi buồn, tiếc, nhớ… mênh mang…
Thơ là một dòng suối mà ngôn ngữ là con thuyền chuyên chở cảm xúc, nhờ thứ ngôn ngữ cô đọng đó nên “cái bên trong” của nhà thơ… lan ra bên ngoài…tưới mát tâm hồn và chạm đến trái tim người đọc.
Thế nhưng xưa nay hiếm có những bài thơ mà âm vang dừng lại thật lâu, đọng lại trong tâm người thưởng thức..
Phần lớn những vần thơ đến với chúng ta chỉ trong một thoáng, nó như bức tranh mây đa sắc xuất hiện giữa bầu trời…và hình như chỉ khi nào có một họa sĩ tài hoa bằng nghệ thuật độc đáo của mình, nắm bắt được hình ảnh bất chợt, vẽ lên tranh thì hình tượng ấy mới trở nên cụ thể, hư ảo và sắc màu cùng hiện thì cảm xúc của nhà thơ mới được hình tượng hóa : và người yêu thơ mới có thể cảm nhận hết sự cộng hưởng của giai điệu và lời ca.
Bài thơ Lời Tình Buồn của CTNM nhẹ nhàng và ngôn ngữ tự nó có mang theo âm tiết như một bài ca.
Nhưng phải nói thêm là tiếng vang của nó sẽ vụt tắt nếu không bắt gặp bàn tay tài hoa của Vũ Thành An.
Chính có sự gặp gỡ này thì ngôn ngữ và âm thanh mới giao thoa và những cung bậc cảm xúc được vang lên bằng một thứ âm thanh len lỏi vào trái tim người nghe, ngân vang và được lưu giữ mãi.
Bài hát đã chắp cánh cho những vần thơ ngọt ngào, da diết … bay cao, lay động lòng người. Nhiều năm sau nghe lại Khánh Ly… giọng hát có lúc trầm buồn, có khi cao vút, khơi dậy trong lòng người nghe những nỗi nhớ của một thời yêu thương, lòng vấn vương bao kỷ niệm của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước…
Lời Tình Buồn cuốn hút, mang tâm hồn tôi bay ngược về quá khứ, hất tung những hình ảnh bị che mất dưới lớp bụi mịt mờ của thời gian…
Trương Văn Dân
Yêu chơi đỡ buồn!
Tôi thỉnh thoảng lại phải ngồi nhẫn nại nghe từ đầu tới cuối một câu chuyện tình. Người kể chuyện tình thường buồn, hoặc buồn cười, nhưng tựu trung là không có hậu. Sau một tình yêu thường là những cảm xúc rất phức tạp:
Với con gái, chia tay không phải là chỉ mất đi một người con trai và một mối tình.
Nếu bạn vẫn còn chờ đợi một tin nhắn của anh ấy: Thật ngây thơ, chứng tỏ bạn vẫn muốn tin rằng, sau tình yêu là tình bạn.
Nếu bạn ghen tuông cáu kỉnh khi bắt gặp bức ảnh người cũ vui vẻ bên bạn bè mới, đồng nghiệp thân, cô gái lạ: Thật mâu thuẫn, thâm tâm bạn muốn anh ấy phải buồn khổ đau đớn, thế mà bạn muốn anh ấy phải luôn cầu chúc điều may mắn hạnh phúc chóng đến với bạn?
Nếu bạn hãnh diện và kiêu ngạo vì nhanh chóng có bồ mới hay ho hơn người cũ: Thế hóa ra anh người cũ chỉ là “giai đoạn quá độ” trong lúc bạn chưa kiếm ra anh nào tử tế?
Thế nếu bạn cũng chỉ là “giai đoạn quá độ” của anh bồ mới mà thôi, thì sao?
Nếu bạn thấy buồn nhưng luôn cầu chúc anh ấy hạnh phúc với những lựa chọn mới: Thực ra bạn đã yêu rất nhiều! Nhiều hơn tất cả những gì bạn đã được nhận!
Nên, đừng buồn. Những đóa hoa cô đơn sẽ nở với mùi hương quyến rũ nhất.
Còn con trai, thường sẽ kết thúc tình yêu bằng cách đi một mình tới quán nhậu mà chiến hữu hẹn, hay đi một mình tới quán cà phê, quán ăn, rạp chiếu phim, chuyến đi chơi mà bạn bè thân hò hẹn.
Chàng sẽ đi một mình như thế cho tới lúc, có cô nàng nào đó từ một ngày nào đó lúc cúc đi theo chàng tới mọi chốn. Y như cô người yêu cũ.
Mọi việc thật là đơn giản và ít nhầm lẫn. Nếu sau lúc chia tay, người con trai vẫn còn mân mê chiếc điện thoại chờ tin nhắn hay nhắn tin cho cô bạn cũ, chứng tỏ anh chàng này có vấn đề trong tim hoặc trong đầu óc. Anh quá lụy tình hoặc anh đang mất thăng bằng trong cuộc sống.
Nên, chia tay người yêu thì phải vui lên nào chàng trai. Hãy xóa số di động của cô ấy, và cho những kỷ vật tình yêu vào thùng các-tông mang đem cho ai đó! Bởi đơn giản, một ngày nào đó, có thể tất cả những thứ ấy sẽ làm tổn thương người con gái yêu bạn mai đây, biết không!
Thậm chí, kể cả như thế đi chăng nữa, thì hiếm gì những cuộc giận hờn chia tay, gián đoạn tình yêu trong suốt cả cuộc đời trăm năm và cuộc tình kéo dài gần tám mươi năm ấy?
Nếu bạn không học nổi cách chia tay bình yên và tôn trọng nhau, liệu bạn có còn cơ hội để quay trở lại với nhau?
Chúng ta chỉ cần đủ mười tám tuổi và đủ mơ mộng, nghĩa là đủ trưởng thành về thể chất và xúc cảm là có thể bước vào tình yêu, nhưng chúng ta buộc phải điềm đạm và lý trí, tức là trưởng thành về tinh thần để chia tay tình yêu.
Chia tay là một học phần bắt buộc để ta có được tấm bằng tình yêu.
Vì rất đơn giản là, tôi chưa từng được gặp một người nào mà từ bé đến lớn chỉ quen một người, chỉ yêu một người, rồi sống với người ấy đến đầu bạc răng long!
Tôi thậm chí từng chia tay chồng một lần trong một cuộc li hôn đầy thị phi ở nhiều năm về trước. Thế nhưng chúng tôi đều không từng xúc phạm nhau dù chỉ một câu nói nào.
Thậm chí chưa từng làm bất cứ điều gì gây khó khăn cho những mối quan hệ xã hội khác của người kia. Và những lúc khó khăn nhất, vẫn xuất hiện để giúp đỡ nếu có thể.
Đó chính là lý do mà chúng tôi quay trở lại dưới một mái nhà, và cuộc chia tay đầy thị phi (từ đám đông xung quanh) vẫn là một kỷ niệm đẹp đẽ trong quá khứ. Để có thể nhìn vào đó mà quyết định sẽ sống tiếp trong tương lai như thế nào.
Tôi biết có những vết thương tình yêu không bao giờ hàn gắn được. Có một cô gái đã chia tay người chồng chưa cưới chỉ vì một câu nói sẵng của anh ấy.
Cũng có một bạn trẻ nói với tôi rằng, sự lừa dối của cô người yêu cũ mãi mãi là vết thương sâu sắc trong tim, đến mức trở nên nghi ngờ “bọn con gái”!
Tôi chỉ nghĩ rằng, sau lúc chia tay, đúng sai buồn vui gì, hãy để cho tình yêu cũ ngủ yên, được không? Nếu không thể sống tốt với nhau tiếp, thì chí ít, đừng khơi lên mãi những thứ tồi tệ trong quá khứ!
Hãy nghĩ ta đã từng yêu, nhưng nếu không có kết quả, thì cũng hãy coi như một lần yêu chơi đỡ buồn!
Vì khi ấy, chúng ta đã vui sướng hạnh phúc biết bao nhiêu!
Trang Hạ
Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013
Luôn luôn là chính mình
Hãy sống trọn vẹn cuộc đời của chính mình. Đừng bao giờ mơ ước rằng ta
sẽ được giống như một ai đó. Bởi mỗi người có mỗi sự vĩ đại và mỗi nỗi
khổ riêng.
Khi ta so sánh với người khác rồi cảm thấy mình nhỏ bé hoặc
ganh tỵ với họ thì cũng có nghĩa rằng ta đang sỉ vả chính mình. Vì khi
so sánh với người khác, ta đã quên đi sự độc đáo mà mỗi người đều có. Và
chỉ những kẻ tiểu nhân mới đi ganh tỵ với người khác. Thân ai người ấy
lo, phận ai người ấy giữ.
Không ai có thể sống thay cho ta được. Sâu
thẳm bên trong mỗi người là một sức sống tiềm tàng vô cùng mạnh mẽ.
Có thể ta đau nhưng đừng làm ta thêm khổ. Đau do thân, khổ do tâm. Một
khi đã khổ tâm thì mệt mỏi lắm. Hãy vui vẻ thanh toán những món nợ mà ta
từng gây ra.
Tuổi trẻ bồng bột là lúc mà con người có rất nhiều điều phải hối hận.
Hạnh phúc và đau khổ là hai kẻ song hành trên đường đời.
Bộ phim dài tập
mang tên cuộc đời là bộ phim ý nghĩa và chân thực nhất mà mỗi người đều
được tham dự. Dù vui hay buồn, mỗi sự việc xảy ra cũng dạy ta một bài
học và giúp ta có kinh nghiệm. Cứ tiếp tục sống, rồi cuộc đời sẽ dạy ta
thêm.
Bất kỳ ai cũng có quyền được phạm sai lầm vì họ cũng chỉ là một con
người.
Nhiều người quan điểm rằng “đấu tranh thì tránh đâu”. Nhưng thật
ra đấu tranh là một phần không thể thiếu của cuộc sống. Phải đấu tranh cho công lý.
Sống là phải chịu đựng,
chịu thương chịu khó trong những hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời cũng phải
mạnh mẽ và dũng cảm để đối mặt được với những sự thật trớ trêu. Mỗi
người đều có một sự vĩ đại riêng mà không ai giống ai cả.
Nguyễn Hữu Hiếu.
Nếu mà
Nếu mà gặp lại nhau
Thì thế nào anh nhỉ?
Những yêu thương nhung nhớ
Liệu có còn vẹn nguyên?
Thì thế nào anh nhỉ?
Những yêu thương nhung nhớ
Liệu có còn vẹn nguyên?
Nếu mà gặp lại nhau
Chuyện ngày xưa có kể
Hay mỉm cười lấy lệ
Rồi khẽ khàng bước
Chuyện ngày xưa có kể
Hay mỉm cười lấy lệ
Rồi khẽ khàng bước
Nỗi đau đã dịu xoa
Hay vẫn còn âm ỉ
Ừ thì cũng là vị
Của một thời yêu nhau
Hay vẫn còn âm ỉ
Ừ thì cũng là vị
Của một thời yêu nhau
Giọt nước mắt đã lau
Để nụ cười sẽ thắp
Nếu ngày mai có gặp
Sẽ nói gì cùng nhau?
Nếu ngày mai có gặp qua
Nhớ ngẩng đầu chào nhau!
Nhớ ngẩng đầu chào nhau!
Hoàng Yến Anh.
Người Mỹ trầm lặng
Robert Poduna Vac hay ngồi bệt trước hiên nhà nhìn ra khu đồi trước mặt, nơi đó có vạt rừng keo và cau do chính ông tạo dựng nên. Dáng ngồi và khuôn mặt bình thản của Robert gợi cho người ta cảm giác ông đã thuộc về nơi này từ lâu lắm…
Lúc tôi đến, ông mặc một chiếc áo lam của người Phật tử, tay cầm tràng hạt, mắt chăm chú nhìn lên tượng Quan âm toả hào quang điện chấp choá trên tường. Ông đang đắm chìm trong một cảnh giới không thể quấy rầy.
Vì tôi yêu em
Nhà ông ở trên đỉnh đồi Buông, thuộc một xã miền núi hẻo lánh của Quảng Nam – xã Tam Lãnh (huyện Phú Ninh).
Tại sao một chuyên gia phần mềm của một công ty lớn ở Washington, lại từ bỏ tất cả để đi làm nông dân ở chốn rừng núi này, thật khó giải thích.
Mỗi người nói mỗi kiểu, riêng Nguyễn Bích Giang, cô gái đầu của người phụ nữ sắp là vợ Robert, giải thích hơi lạ: “Kiếp trước ổng nợ mẹ em nên kiếp này ổng phải trả”...
Giang nói: “Ổng từ bỏ quê hương, tiện nghi, tiền bạc, thậm chí bỏ cả đạo gốc (Robert đã cải đạo Thiên Chúa sang đạo Phật) để theo mẹ em, một phụ nữ đã có đời chồng, ba đứa con, nghèo xơ xác làm nghề rửa bát thuê. Ổng sống chung với mẹ ba năm rồi nhưng tối ai ngủ giường nấy, ổng ngủ một mình cònmẹ ngủ với em. Ông hy sinh tất cả vì mẹ mà không đòi hỏi điều gì cả”.
Bà Lữ Hà Thy Nhơn (1969), vợ sắp cưới của Robert, cũng thú thật như vậy: “Robert bị tai nạn giao thông dẫn đến đau cột sống, không thể ân ái vợ chồng được…” Bà Nhơn cũng tiết lộ, Robert coi điều đó là một thiệt thòi cho bà, thỉnh thoảng ông đưa bà cả chục ngàn USD và khuyên bà nên đi chơi đâu đó. Nhưng bà chối từ.
Bà không muốn phụ ông, một người bà coi như đấng cứu nạn của đời mình.
Robert đã biến cô lọ lem Thy Nhơn nghèo xác xơ thành một “công chúa” ở đất Tam Lãnh này. Ngày trước bà Nhơn chỉ có một túp lều dưới chân đồi, trong đó ngoài cái giường tre không còn gì nữa cả.Robert đã sắm cho gia đình bà từ… cuộn giấy vệ sinh sắm lên.
Ông bỏ tiền đổ đất nền lên cao
và dựng lên đó một ngôi nhà khang trang thuộc loại nhất nhì của Tam Lãnh
bây giờ. Ông chuộc lại toàn bộ đất đai (3ha) mà ngày trước vì túng
thiếu mẹ bà đã bán, và dựng lên đó một trang trại với rừng keo, cau xanh
ngát, với hàng trăm con gà, vịt, bồ câu…
Ba đứa con bà được ông sắm sửa
từ cái áo, cái quần, ông đi hỏi vợ cho cậu con trai giữa và chuẩn bị
làm đám cưới cho cô con gái đầu của vợ, Nguyễn Bích Giang.
Ông làm tất
cả những điều đó, với số tiền chi ra bằng gia tài một người giàu có ở
Quảng Nam để được gì? “Nhiều khi tôi cũng thắc mắc như vậy, nhưng ông
chỉ nói đơn giản, vì tôi yêu em”, bà Nhơn kể.
Âm thanh của sự trầm lặng
Robert về quả đồi này được bốn năm. Cả xã hầu như không ai nói được
tiếng Anh (trừ vợ ông), ông không biết tiếng Việt. Vì vậy Robert có lẽ
là người ít nói nhất của Tam Lãnh.
Mỗi khi khách đến nhà, vợ ông huyên
thuyên, còn ông theo thói quen ra ngồi bệt trước hiên nhà, hút thuốc và
nhìn ra rừng.
Bà Nhơn nói, Robert không thích ồn ào, mỗi khi đi đâu, ông
đều khuyên nên chọn chỗ yên tĩnh...Robert ít nói nhưng không hề lãnh đạm với mọi
người.
Do nhà có chăn nuôi nên hay thuê phụ nữ chung quanh đến thái
chuối cây để làm thức ăn cho chúng.
Những ngày đầu thấy bà con ngồi bệt
xuống đất làm việc, ông lẳng lặng lấy xe máy chạy 30km đường núi xuống
Tam Kỳ (tỉnh lỵ của Quảng Nam) mua một lô ghế nhựa nhỏ đem về cho bà con
ngồi. Những nông dân đến làm thuê cho ông, ông không nói chuyện với ai
nhưng không hề quên ai.
Có lần một người đang làm bị ốm phải nghỉ. Thấy
anh ta không đến, ông hỏi vợ rồi vào lấy mấy trăm ngàn đồng đưa vợ bảo
đem đến cho anh ta uống thuốc.
Qua trường mẫu giáo thôn thấy bàn ghế các
em xập xệ, ông làm thinh về lấy mấy triệu đồng qua cho trường để sửa
chữa. Một lần nghe bà con định tu sửa lại cái miếu thôn, ông đưa tiền
cho bà con mua vật liệu và đích thân đi mua sơn về bỏ hai ngày lụi cụi
sơn lại miếu. Các cụ bô lão trong thôn sững sờ.
Chốn về của kẻ độc hành
“Chúng ta về quê em sinh sống đi”, ông đề nghị bà Nhơn khi hai người đang ở Sài Gòn.Thế còn công việc của anh, về đó chúng ta lấy gì mà sống?”
“Tôi xin nghỉ việc công ty. Em đừng lo, tôi có điều kiện để em sống một đời không lo lắng”.
“Nhưng anh thích điều gì ở đó?”
“Tôi thích sự tĩnh lặng của nó”.
Ông về hôm trước, hôm sau bà con đã thấy ông ra đồng. Nhà bà Nhơn có mấy sào lúa, từ cày cấy, đổ nước, gặt hái…ông tham gia hết.
“Tôi xin nghỉ việc công ty. Em đừng lo, tôi có điều kiện để em sống một đời không lo lắng”.
“Nhưng anh thích điều gì ở đó?”
“Tôi thích sự tĩnh lặng của nó”.
Ông về hôm trước, hôm sau bà con đã thấy ông ra đồng. Nhà bà Nhơn có mấy sào lúa, từ cày cấy, đổ nước, gặt hái…ông tham gia hết.
Với tiền bạc
của mình ông dễ dàng trở thành một đại điền chủ của Quảng Nam. Nhưng
không, ông chắt chiu từng hạt lúa trên đám ruộng của mình.
Những trưa
nắng như đổ lửa, bà con thấy ông đầu trần, vận mỗi cái quần đùi, lết bàn
chân đi tới đi lui trên sân để đảo lúa cho khô.
Ông phơi phóng, gìn giữ
từng hạt lúa không phải cho mình vì ông chưa… ăn cơm được.
Ngày ngày,
khi gà trong thôn vừa gáy, ông đã dậy, vác cuốc ra đồi chăm lo rừng keo,
rừng cau, dựng cây này lên, bón gốc cho cây kia.
Đang làm, sực nhớ điều
gì, ông tất tả chạy về. Ông lấy cái ô lúa mà vợ đong sẵn hú gọi gà,
vịt, bồ câu đến để cho ăn.
Có lần chuyên gia phần mềm Robert cho gà, vịt
ăn đến suýt chết vì quá nhiều, con nào con nấy diều phồng lên cứng
ngắc, đi không nổi. Từ đó, bà Nhơn phải đong khẩu phần gà, vịt cho
Robert…
Trang trại cho thu nhập bao nhiêu, Robert không cần biết. Điều Robert
cần là được làm công việc của một nông dân. Robert ước ao được chết như
một… nông dân, nghĩa là có cái mộ. Bà Nhơn biết điều này qua một lần
Robert tâm sự: “Ở bên Mỹ khi chết thiêu xác mang tro rải biển, thấy lạt
lẽo cuộc đời quá. Tôi muốn được như người dân quê em, có một ngôi mộ,
nhỏ cũng được, nhưng là cái còn lại của mình sau cuộc đời này”.
Một lần Robert về Mỹ, bà Nhơn im lặng kêu người xây một ngôi mộ cho ông
bên cạnh cái trang trại với rừng cây, gà vịt mà ông tạo dựng nên. Khi
trở lại biết chuyện này ông khóc nức nở vì cảm động: “Em đã toại nguyện
một mong muốn lớn nhất của đời tôi. Cả đời này tôi mang ơn em”. Bên ngôi
mộ mình, ông tâm sự đã từng có một người vợ, từng tha thiết mong những
đứa con. Nhưng vợ ông ba lần mang thai ba lần hỏng vì cô nghiện rượu.
Ông ly dị vợ và sau đó bị tai nạn giao thông, chuyện có con coi như khép
lại vĩnh viễn. Vì công việc ông sống nhiều nước, nhưng đi đâu ông cũng
cô đơn, cũng thấy thiếu vắng. Chỉ có ở đây, ở đồi Buông này, mà ông hiểu
theo tinh thần đạo Phật là buông xả tất cả, ông mới thấy lòng mình yên
tĩnh.
Đêm đêm theo lời khuyên của bà Nhơn, Robert đem máy cassette ra mộ mình
mở băng kinh Phật “cho ấm ngôi nhà mai sau”. Ông rất hay đi chùa.
Đến
đâu ông cũng cúi đầu lạy Phật thành kính. Mỗi ngày hai thời, ông mặc áo
lam, cầm xâu chuỗi đứng niệm Phật. “A di đà Phật” là bốn tiếng Việt duy
nhất mà ông thuộc và sử dụng hàng ngày.
Robert Poduna Vac vừa xin được Giấy chứng nhận độc thân từ đại sứ quán
Mỹ tại Việt Nam. Ông cần thủ tục này để làm hôn lễ với bà Nhơn. Một đám
cưới có phần kỳ lạ, đám cưới mẹ lại diễn ra sau đám cưới con (Bích
Giang), chú rể 73 tuổi, cô dâu 41 tuổi, đám cưới thì có, động phòng thì
không.
Đoàn Nguyễn
Đoàn Nguyễn
Nhạc sĩ Việt Dzũng (1958-2013)
Việt Dzũng tên thật là Nguyễn Ngọc Hùng Dzũng, sinh ngày 8 tháng 9 năm 1958 tại Sàigon, Việt Nam. Anh là con trai thứ 3 trong gia đình. Ba của anh là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Dân Biểu của nền đệ nhị cộng hoà Việt Nam và cũng là Thiếu Tá Y sĩ trưởng Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Mẹ của anh là bà Nguyễn Thị Nhung, giáo sư trường nữ trung học Gia Long ở Sài Gòn. Từ nhỏ anh đã là một học sinh xuất sắc của trường Lasalle Tabert ở Sài Gòn, cũng như anh trai và đứa em trai kế của anh.
Người chị lớn của anh thì đang du học bên Nhật Bản về ngành giáo dục. Việt Dũng đã yêu thích âm nhạc từ khi còn rất trẻ và được các sư huynh ở trường Lasalle Tabert chỉ dạy rất tận tình.
Trong lúc gia đình mong cho anh sau này trở thành Bác sĩ để nối nghiệp cha, thì Việt Dzũng lại đam mê ca hát, văn nghệ. Anh thường cùng các bạn học trình diễn ca nhạc ở những buổi văn nghệ liên trường. Việt Dzũng đã từng chiếm giải nhất ở cuộc thi văn nghệ của trường Tabert và đại diện trường đi tham dự các buổi hát ủy lạo chiến sĩ VNCH, cũng như tham dự vào những đại hội nhạc trẻ khắp nơi bên cạnh những tên tuổi nổi danh thời bấy giờ như Trường Kỳ, Nam Lộc, Jo Marcel, Tùng Giang, Đức Huy, Elvis Phương.v.v..
Đó là khoảng thời gian từ năm 1971 cho tới tháng tư năm 1975.Biến cố 30 tháng tư năm 1975 cùng với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam đã đưa Việt Dzũng rời xa quê hương mà cho đến nay chưa một lần nào anh đặt chân trở lại. Cùng với 36 người chen chúc nhau trên một chiếc tàu nhỏ bé, mong manh, Việt Dzũng và bà ngoại của anh đã vĩnh viễn rời xa gia đình và đất nước Việt nam.
Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như phải chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển cả, tàu của họ mới cập được bến Singapore.
Nhưng liền sau đó, tất cả lại bị chuyển qua một chiếc tàu khác và thẳng đường tới trại tị nạn Subic ở Phi Luật Tân.
Tại trại tạm cư Subic, chàng thanh niên trẻ Việt Dzũng tạm quên đi những kỷ niệm thật đẹp ở quê nhà mà bắt tay ngay vào đời sống mới. Với số vốn Anh ngữ học được ở trung học và tính tình hoạt bát, Việt Dzũng liền tham gia hoạt động trong ban tổ chức và điều hành trại, đón tiếp và giúp đở nhiều chuyến tàu tị nạn lần lượt cặp bến Subic cho đến khi trại này đóng cửa.
Rời trại tị nạn này, Việt Dzũng cùng bà ngoại được đưa sang đảo Guam, rồi chuyển sang trại Ft. Chaffee ở tiểu bang Arkansas.
Trong thời gian này Việt Dzũng hoạt động không ngừng nghỉ, từ việc đón tiếp đồng bào tị nạn mới tới, sinh hoạt trong hội Hồng Thập Tự, hội USCC, cộng tác với tờ báo của trại, chương trình phát thanh của trại, làm thông dịch viên giúp đỡ rất nhiều người chung quanh.
Chính những kinh nghiệm sống trên đường vượt biển tìm tự do này đã khiến cho anh sáng tác rất thành công các ca khúc để đời sau này, mà tiêu biểu nhất vẫn là “Lời Kinh Đêm” với những câu ca: “Thuyền trôi xa … về đâu ai biết ?
Thuyền có về …ghé bến tự do ?
Trời cao xanh … hay trời oan nghiệt Trời có buồn … hay trời vẫn làm ngơ ?…
Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mồ xanh ?
Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ …?”Ở lại trại gần đến ngày cuối cùng trước khi trại đóng cửa, anh được Đức cha Bernard Law, Giám Mục địa phận Springfield, Missouri, bảo trợ và gởi đến tạm trú trong một gia đình người Mỹ. Năm 1976, Việt Dzũng tiếp tục học lớp 11 ở trường trung học St. Agnes, Missouri và tự trau dồi thêm về âm nhạc theo như sở thích và đam mê từ nhỏ của anh.
Năm 1978, Việt Dzũng chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc khi cùng một người bạn học chung trường tên là Vernon Larsen lập ban song ca để hát theo lối du ca (troubrador) của Mỹ, tên “Firebirds” (Chim Lửa). Đôi song ca này chuyên hát nhạc đồng quê của Hoa Kỳ (American country music).
Việt Dzũng sử dụng tây ban cầm và cùng người bạn Mỹ đi trình diễn khắp nơi ở vùng Trung Mỹ, kể cả các club nhạc của dân địa phương. Nhiều người Mỹ đã tỏ ra rất ngạc nhiên khi thấy một thanh niên Á châu hát nhạc đồng quê rất thành thạo, trôi chảy nên đã dành cho anh thật nhiều thiện cảm.
Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy.
Thật ngạc nhiên khi anh là người Việt Nam đầu tiên, mà cũng là người Á châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác country music với bài hát hoàn toàn bằng Anh ngữ. Ngay sau đó, một hãng dĩa về country music đã mời anh cộng tác để thực hiện một Album nhạc đồng quê, nhưng anh đã từ chối vì muốn tiếp tục học ở Đại học theo ý muốn của song thân.
Đó là thời gian người Việt tỵ nạn bắt đầu gửi quà về cho thân nhân ở quê nhà, chia sẻ những khổ đau chất ngất, đọa đày dưới chế độ mới như những lời ca sau đây “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay …
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may Mẹ may hộ con tim gan quá đoạ đày. Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương Gởi về cho mẹ dăm gói trà xanh Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn ….
Con gởi về cho cha một manh áo trắng Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình …”Năm 1979, trong Hội Chợ Tết Nguyên Đán được tổ chức tại San Antonia, Texas, Việt Dzũng đã lên sân khấu, ôm đàn guitar trình bày hai ca khúc mà anh vừa sáng tác mang tên “Lời Kinh Đêm” và “Một chút quà cho quê hương”. Khi hát xong, nhìn xuống khán giả thì mọi người đã đầm đìa nước mắt và túa ra ôm ấy anh khi anh rời sân khấu. Việt Dzũng đã chinh phục bà con đồng hương nơi đây kể từ lúc này.
Năm sau 1980, Việt Dũng trình diễn tại một đại nhạc hội ở Omaha, Nebraska với Sĩ Phú và Mai Lệ Huyền.
Sau đó anh đã hát với Khánh Ly, Hoàng Oanh, Trung Chỉnh ở Denver, Colorado những bài hát do anh sáng tác.
Ngay lúc đó, Khánh Ly đã chọn ba bài hát của anh là: “Lời Kinh Đêm, Mời Em Về, Một Chút Quà Cho Quê Hương” đem về California thâu vào băng nhạc “Một Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa”. Ba bài hát này đã là những bài hát nằm lòng của hàng triệu người Việt nhiều năm sau đó (kể cả ở trong nước).
Thập niên 1980 cũng là năm mà số người Việt bỏ nước ra đi cao nhất, Việt Dzũng đã cho ra mắt cuồn băng nhạc đầu tay “Kinh Tỵ Nạn” do Trung Tâm Nhã Nhạc tại Houston, Texas thực hiện. Ngay tuần lễ đầu, băng nhạc này đã được đón nhận nhiệt liệt từ California đến tận Canada, số bán sau đó đã lên đến cả trăm ngàn ấn bản. Lúc đó, Việt Dzũng đã quyết định chính thức di chuyển qua California sinh sống và sinh hoạt văn nghệ để có thể phát triển tài năng của anh nhiều hơn.
Đầu tiên, anh được nhạc sĩ Ngọc Chánh mời hát cho đại nhạc hội ở Orange County và tiếp tục lưu diễn khắp nơi.
Anh cũng đã hoàn thành cuồn băng nhạc thứ nhì tên là “Lưu Vong Khúc” vào giai đoạn này.Trước đó, vào năm 1978 anh đã gặp ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh tại Đại Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt tại thủ đô Washington DC và hai người liền kết nghĩa chị em.
Cả hai cùng sáng tác và kết hợp thành một đôi song ca trình diễn khắp nơi trên thế giới, chỉ trừ các nước cộng sản mà thôi.
Tại Mỹ, họ đã lưu diễn hầu hết 50 tiểu bang, kể cả những tiểu bang có rất ít người Việt sinh sống.
Tại Á châu, họ đã hát ở Nhật hơn ba lần, hát cho các phái đoàn ngoại giao, tòa tổng lãnh sự, sứ quán Mỹ ở nhiều nước như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…
Nhưng chuyến lưu diễn ở Âu Châu của Việt Dzũng và Nguyệt Ánh phải coi là một chuyến lưu diễn lịch sử.
Đã có hàng ngàn người Việt từ khắp nơi đón xe lửa đến gần địa điểm trình diễn, cắm trại nằm chờ trước hai ba ngày khai mạc để gặp hai thần tượng của họ.
Ở Úc Châu khán giả cũng nhiệt liệt đón chào Việt Dũng và Nguyệt Ánh.
Họ đã đi hết những thành phố có người Việt cư trú kể cả những nơi hẻo lánh như Perth và Darwin.
Đã có nhiều bài báo và cả hai cuốn sách xuất bản ở Úc được viết ra để ca tụng cho lý tưởng đấu tranh chống cộng và ước mơ ngày về quang phục quê hương của đôi nghệ sĩ này. Ngay lúc đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam liền lên án Việt Dzũng và Nguyệt Ánh là hai kẻ phản động số một, tuyệt đối cấm phổ biến tất cả các nhạc phẩm của họ trong nước.
Trong một phiên tòa sau đó, CSVN đã kết án tử hình khiếm diện hai nghệ sĩ này. Ngày 1 tháng Tư năm 1985, hai nghệ sĩ này đã kết hợp với những ca nhạc sĩ khác để thành lập Phong Trào Hưng Ca Việt Nam, dùng âm nhạc làm vũ khí đấu tranh chống lại kẻ thù. Cho đến nay, Phong Trào Hưng Ca Việt Nam vẫn còn hoạt động đều đặn với những tên tuổi khác như Huỳnh Lương Thiện, Trương Sĩ Lương, Xuân Nghĩa, Tuấn Minh, Tuyết Mai, Lưu Xuân Bảo..v.v..Trong suốt thời gian hơn 25 năm này, Việt Dzũng vẫn tiếp tục có những hoạt động đều đặn, liên tục và bền bỉ để tranh đấu cho người tị nạn Việt Nam.
Có thể nói, bất cứ nơi nào có người tị nạn Việt Nam là có bước chân Việt Dzũng mang tiếng đàn, tiếng hát của anh để binh vực cho họ, sưởi ấm tấm lòng của họ, mang niềm tin yêu và hy vọng cho họ vượt qua những khổ cực, đau buồn và mất mát trên đường vượt biên. Anh đã có mặt hầu hết các trại tị nạn ở vùng Đông Nam Á để thăm viếng, ủy lạo đồng bào, giúp đở trẻ em không thân nhân và hàng ngàn công tác xã hội khác mà không hề biết mệt.
Cũng trong năm 1985 này, Việt Dzũng đã cho ra đời một băng nhạc hoàn toàn bằng Anh ngữ “Children of the Ocean”. Đây cũng là album nhạc đầu tiên của người Việt hải ngoại bằng tiếng Anh. Các tờ báo Orange County Register, Los Angeles Times, Washington Post đều có những bài viết khen ngợi cuốn băng này. Riêng tờ Austin-American- Stateman đã gọi Việt Dzũng là “người nghệ sĩ nổi tiếng nhất của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và là một tấm gương sáng giá, chứng tỏ là người tỵ nạn có thể hội nhập vào đời sống mới, trong khi vẫn giữ được nguồn gốc của quê hương mình.”
Về báo chí, Kể từ năm 1980, anh đã cộng tác với tờ Người Việt (trang song ngữ Tuổi Trẻ). Sau đó anh về làm Tổng Thư Ký cho tờ Nhân Chứng năm 1982. Tờ Tay Phải (của Du Tử Lê) năm 1983. Về Houston làm Tổng Thư ký cho tờ Việt Nam Thương Mại năm 1988.
Trở lại California làm thư ký cho tờ Sài Gòn Nhỏ một thời gian và sau đó cộng tác với tờ tuần báo Diễm từ năm 1990.
Năm 1992 trở thành Thư ký toà soạn cho tờ nguyệt san Hồn Việt cho đến bây giờ.
Việt Dzũng cũng là cộng tác viên của nhiều cơ quan truyền thông khắp nước Mỹ như tờ Phố Nhỏ (Washington DC), Thế Giới Mới (Dallas, TX), Phương Đông (Seattle, WA), Mõ Magazine (San Jose, Sacramento, San Francisco & Oakland), Làng Văn (Canada)....
Về truyền thông, Việt Dzũng đã mở ra một cánh cửa khác để cho thấy một tài năng thiên phú và đa dạng ở anh.
Sau một thời gian dài làm báo, tháng 7 năm 1993 Việt Dzũng được mời làm xướng ngôn viên chính cho chương trình phát thanh tiếng Việt đầu tiên ở Nam California, phát thanh 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày là đài Little Saigon Radio.
Nhưng lần đầu tiên, Việt Dzũng đã tạo ra một phong cách mới: anh đưa ra những chương trình trực tiếp truyện trò cùng thính giả trong buổi phát thanh nên không khí rất vui nhộn và hào hứng, náo nhiệt vô cùng.
Sau này các đài phát thanh ở Mỹ và ngay cả ở bên Việt Nam cũng bắt chước theo lối này. Kể cả các đài BBC, VOA phát thanh về Á Châu, cũng thay đổi cách làm việc như cho xướng ngôn viên được phép đùa giởn với thính giả chớ không đọc tin một cách nghiêm trang như ngày xưa.
Ngoài việc phổ biến tin tức, âm nhạc, thể thao cuối tuần, giải trí cuối tuần, tin tức Hollywood …Việt Dzùng còn thực hiện chương trình đặc biệt, nhất là chương trình “Tâm tình với nghệ sĩ” được rất nhiều thính giả ưa thích.
Trong tất cả các chương trình phỏng vấn này, nóng bỏng nhất và đặc biệt nhất phải nói là chương trình phỏng vấn nữ ca sĩ Ngọc Lan. Vì từ trước tới nay, Ngọc Lan không nhận lời cho ai phỏng vấn cả (vào thời điểm đó), chỉ có một lần cô trả lời trên đài VOA; và Việt Dzũng là người duy nhất phỏng vấn được Ngọc Lan vào tháng 10 năm 1994.
Năm 1996, Việt Dzũng cùng các bạn đứng ra thành lập một chương trình phát thanh độc lập, đó là đài Radio Bolsa, phát thanh trên ba làn sóng khác nhau ở Nam California, Bắc California và Houston, Texas. Hiện nay , Radio Bolsa đang phát sóng trên 106.3 FM, 1190 AM
Về mặt sáng tác âm nhạc, cho đến nay Việt Dzũng đã sáng tác hơn 450 bài hát về đủ mọi thể loại.
Những bài hát về tỵ nạn đã được phổ biến rộng rãi trong hai tập nhạc “Kinh Tỵ Nạn (1980) và “Lưu Vong Khúc” (1982).
Những bài hát này được viết ra như một thôi thúc về những điều phải nói ra trong những năm lạc lõng của đời lưu vong nơi xứ người. Sau đó là các ca khúc đấu tranh, quang phục quê hương. Nhưng nhiều nhất vẫn là tình ca, sáng tác rất nhiều nhưng chưa phổ biến hết.
Những bản tình ca nổi tiếng của Việt Dzũng có thể kể ra như Bài Tango Cuối Cùng, Thung Lũng Chim Bay, Khóc Ru Đời Trinh Nữ, Bên Đời Hiu Quạnh, Có Những Cuộc Tình Không Là Trăm Năm, Và Em Hãy Nói Yêu Anh, Tình Như Cây Cà-Rem…Năm 1990, Việt Dzũng thành lập riêng cho mình Trung Tâm Việt Productions, chuyên sản xuất các CD nhạc với tiếng hát của anh và bằng hữu như các CD: Ru Em Sông Núi Đợi Chờ, Thánh Ca Vào Đời, Hùng Ca Quật Khởi, Quê Hương Và Em, Mình Ơi Đưa Em Về Quê Hương, Thắp Lửa Yêu Thương, Lên Đường, Bên Em Đang Có Ta, Tuổi Trẻ Về Nguồn, Hát Cho Tự Do, Thắp Lửa Tự Do, Trái Tim Ở Lại, Anh Vẫn Còn Thương, Vuốt Mặt, Bên Bờ Đại Dương
…Sau hai mươi năm hoạt động không ngừng nghỉ trên mọi lãnh vực và được nổi danh khắp nơi, được hàng triệu người ái mộ, nhưng cũng có lúc Việt Dzũng cảm thấy rất cô đơn. Anh đã từng bày tỏ cảm nghĩ của riêng anh trong một lần phỏng vấn năm 1995 với nhà báo Trường Kỳ như sau “Nhìn vào đời sống nghệ sĩ, ai cũng cũng chỉ thấy những rực rỡ của ánh đèn sân khấu, của những tràng pháo tay và của nhữNg rộn rịp âm thanh.
Đời sống của nghệ sĩ không phải chỉ có vậy. Còn có những giọt nước mắt âm thầm mỗi đêm, những đắng cay tủi nhục và những cám dỗ chập chùng đi kèm.
Cá nhân Việt Dzũng không bao giờ muốn trở thành ca sĩ. Chỉ muốn làm một nhạc sĩ ghi lại những nỗi suy tư của một đời người, và những rung động mà mình bất chợt tìm thấy. Vì thế, nên khi nghe một ca khúc, khi thưởng thức một nhạc phẩm nào, hãy nghe bằng sự rung động của chính tâm hồn mình.
Bạn sẽ thấy người nhạc sĩ đó đang mang trái tim của họ trải rộng cho bạn nhìn, như một tấm tranh vẽ.
Có thể bạn sẽ bắt kịp những nét chấm phá trong tranh. Có thể bạn chỉ ơ hờ lướt mắt qua rồi thôi.
Nhưng dù gì đi nữa, mỗi ca khúc hay mỗi bức tranh vẫn là một hiện diện trong đời sống. Và hãy cảm ơn sự hiện diện đó, vì nếu không cuộc đời sẽ chỉ là những vô nghĩa kéo dài. (Việt Dzũng trong “Tuyển Tập Nghệ Sĩ”, 1995)Nhưng tài năng đặc biệt nhất và nổi bật của anh là kể từ năm 1996, Việt Dzũng chính thức được mời về cộng tác với TTAsia để biên soạn chương trình và đảm trách vai trò MC trong các chương trình video và đại nhạc hội trực tiếp thu hình.
Rất nhiều chương trình Video của Asia có các chủ đề đầy tình người, không nhằm mục đích thương mại, nhưng rất thành công như “Người Lính”, “Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến”, “Tình Ca Anh Bằng”.
Vài năm gần đây lại có những chương trình Asia video thật giá trị như “Âm Nhạc Vòng Quanh Thế Giới”, “Tiếng Hát Trái Tim”, “Mùa Hè Rực Rỡ 2005″.
Nhưng đặc biệt nhất là video “Hành Trình Tìm Tự Do”, khán giả đã thực sự xúc động khi thấy Việt Dzũng trở lại các đảo tị nạn ở Đông Nam Á để làm phóng sự video, gợi nhớ cảnh vượt biển của những thuyền nhân tỵ nạn liều chết ra đi tìm tự do ngày xưa.
Cũng chính những chương trình video này, khi được chuyển về Việt Nam cùng với các DVD khác như “Cuộc Đổi Đời Bi Thảm, Triệu Đóa Hồng Cho Người Phụ Nữ VN, Cuộc Khổ Nạn của Người VN (Dạ Lan), đặc biệt là Asia 50 “Vinh Danh Nhật Trường” và Asia 51 “Nhạc Vàng, Tình Khúc Sau Cuộc Chiến” … đã khiến nhà cầm quyền Việt Nam vô cùng tức tối, khi nhìn thấy Việt Dzũng vẫn tiếp tục xuất hiện trong vai trò làm MC.
Nên vào ngày 18/9/2006 tờ báo Công An Thành Phố HCM đã bắt đầu đăng hai bài viết với đủ thứ ngôn từ hạ cấp nhằm mạ lỵ, phỉ báng và bôi nhọ cá nhân Việt Dzũng thật nặng nề. Có thể nói lần này là lần anh bị những người Cộng Sản VN “đánh” nặng nhứt từ trước đến nay.
Nhưng cũng chính những bài báo này đã khiến cho mọi người càng thấy rõ bộ mặt nham hiểm, quỷ quyệt của Cộng Sản VN như thế nào và cũng làm cho nhiều người thông cảm, yêu mến và chia sẻ những oan khiên, thống khổ của người nghệ sĩ này nhiều hơn.
Với tất cả những mũi tên tẩm thuốc độc bắn thẳng vào anh, Việt Dzũng chỉ im lìm, không lên tiếng biện minh hay viết bài đính chính.
Anh vẫn âm thầm tiếp tục thực hiện những dự án và càng hăng say hoạt động, cống hiến tài năng của mình cho đồng hương như anh đã làm suốt hơn ba mươi năm nay.
Anh vẫn tiếp tục con đường tranh đấu cho nhân quyền và quang phục quê hương trong niềm tin rằng chế độ Cộng sản sẽ cáo chung trong một tương lai rất gần.Năm 2000, Việt Dzũng là một trong những sáng lập viên của đài truyền hình Việt ngữ đầu tiên phát hình 24 giờ/ngày tại hải ngoại, SBTN, trong vai trò đào tạo xướng ngôn viên, phóng viên và ban biên tập tin tức hàng ngày của đài.
Từ đó cho đến nay, Việt Dzũng đảm nhận vai trò chính trong việc biên soạn tin tức hàng ngày của đài SBTN. Trong những năm tháng gần đây, dù phải đương đầu với căn bệnh tim và bệnh tiểu đường ngày càng trầm trọng, Việt Dzũng luôn sát cánh cùng nhạc sĩ Trúc Hồ, giám đốc SBTN trong các cuộc vận động cho nhận quyền cho Việt Nam qua các chiến dịch vận động ký thỉnh nguyện thư đến Toà Bạch Ốc và phong trào Triệu Con Tim-Một Tiếng Nói, nhằm kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc, lên tiếng yểm trợ cho các nhà đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam.
Suốt hơn ba mươi năm nay, Việt Dzũng là một cái tên quen thuộc với hầu hết mọi người Việt đang sinh sống ở hải ngoại, kể cả rất nhiều người dân trong nước cũng biết đến tên anh. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có ai viết cho thật đầy đủ về người nghệ sĩ đa tài này và những đóng góp to lớn của anh trên nhiều lãnh vực khác nhau, nhất là trong địa hạt ca nhạc và truyền thông đại chúng.
Bên cạnh đó, anh cũng thường xuyên là đề tài cho các tờ báo trong nước tấn công từ hơn hai chục năm nay, với những lời vu cáo, mạ lỵ nhằm dìm anh xuống đáy vực sâu.
Nhưng người nghệ sĩ và chiến sĩ tranh đấu cho nhân quyền này vẫn mạnh dạn vượt qua tất cả những khổ nạn chập chùng, oan khiên chất ngất và càng ngày anh càng được nhiều người yêu mến anh thêm.Ngày 20 /12 / 2013 vào lúc 10:35 sáng, Việt Dzũng đã đột ngột từ trần, hưởng dương 55 tuổi.
Anh ra đi mang theo sự thương tiếc của hàng triệu người Việt tại hải ngoại và tại quê nhà.
D.Khiem ,
SBTN Sidney ,Australia
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)